Phong cách nghệ thuật Cher

Âm nhạc

Nhạc mẫu:

Cher thể hiện nhiều phong cách âm nhạc khác nhau, bao gồm folk rock, pop rock, power ballad, disco, new wave, rock, punk rock, arena rockhip hop;[220] bà phát biểu mình "luôn muốn làm mới bản thân và thực hiện những điều gây ấn tượng".[221] Âm nhạc của bà thường mang các chủ đề về tình yêu tan vỡ, sự tự lập và ca ngợi phụ nữ; theo Judy Wieder của tạp chí Out, bằng âm nhạc của mình, Cher đã trở thành "một biểu tượng đau buồn của người phụ nữ dứt khoát độc thân nhưng vẫn mạnh mẽ".[222] Phill Marder từ Goldmine gọi sự lựa chọn bài hát "gần như hoàn hảo" của Cher là yếu tố giúp bà trở thành một ca sĩ nhạc rock nổi tiếng; trong sự nghiệp đơn ca, hầu hết các bài hát đều do Cher lựa chọn từ sáng tác của những tác giả độc lập, thay vì được chắp bút và trình bày cùng Sonny Bono trước đây.[223] Not.com.mercial (2000), album đầu tiên do chính bà tự sáng tác, mang "cảm giác ca sĩ tự sáng tác vào thập niên 1970" và chứng tỏ "Cher thông thạo trong vai trò dẫn dắt câu chuyện", theo Jose F. Promis của AllMusic.[224]

Robert Hilburn từ Los Angeles Times có viết, "Có rất nhiều đĩa thu âm vĩ đại của nữ ca sĩ từ thuở đầu dòng nhạc rock... Tuy vậy, không có sản phẩm nào phản ánh được quyền thế và sức mạnh mà chúng ta liên kết cùng rock 'n' roll ngày nay như những bài hát thành công mấu chốt [của Cher].[225] Một vài trong số những bài hát thời sơ khai của Cher có đề cập đến những vấn đề hiếm hoi trong văn hóa âm nhạc Mỹ như ly hôn, mại dâm, phân biệt chủng tộc và mang thai ngoài ý muốn hoặc ở tuổi vị thành niên.[223] Theo Joe Viglione của AllMusic, đĩa đơn "The Way of Love" năm 1972 của bà nhắc đến "một người phụ nữ bày tỏ tình cảm với một người phụ nữ khác, hoặc một người phụ nữ nói lời yêu đến một người đồng tính nam mà cô ta động lòng" ("What will you do/When he sets you free/Just the way that you/Said good-bye to me").[226] Khả năng trình bày quãng giọng của cả nam lẫn nữ giúp bà trình diễn đơn ca những bài hát mang chủ đề lưỡng tính hoặc trung lập về giới tính.[226]

Giọng hát

Nhạc mẫu:

Cher sở hữu chất giọng contralto,[228] được tác giả Nicholas E. Tawa mô tả "táo bạo, sâu sắc cùng giọng vibrato vững chắc".[220] Ann Powers từ The New York Times gọi đây là "một chất giọng rock tinh túy: tinh khiết, kỳ quặc, một phương tiện hoàn hảo để quảng bá cá tính."[229] Bruce Eder của AllMusic viết rằng chất giọng "cường điệu và đam mê phi thường" của Cher cùng "khả năng hòa quyện với kỹ năng diễn xuất của bà" có thể mang đến "một trải nghiệm vô cùng mạnh mẽ đến người nghe", mặc cho quãng giọng có hạn của bà.[230] Paul Simpson trong quyển The Rough Guide to Cult Pop (2003) khẳng định "Cher [là] người sở hữu một trong những giọng hát khàn độc nhất dòng nhạc pop... có thể làm nên điều kỳ diệu với thể loại phù hợp do một nhà sản xuất đúng đắn chỉ đạo".[231] Ông cũng diễn giải thêm: "bà ấy nhả chữ... với sự tự tin nhiều đến nỗi bạn có thể nghĩ rằng bà đang truyền đạt một sự thật bất diệt về nhân loại".[231]

Viết về âm nhạc của Cher vào thập niên 1960, Robert Hilburn của Los Angeles Times khẳng định "Rock sau này gặp may mắn với sự cảm thán nhạc blue đầy kinh ngạc của Janis Joplin cuối thập niên 60 và sức thơ ca mộc mạc của Patti Smith vào giữa thập niên 70. Thế nhưng chưa ai đạt đến độ thuần khiết và hấp dẫn như Cher".[225] Ngược lại, giọng ca trình diễn của bà vào thập niên 1970 được Eder mô tả "cường điệu, vô cùng mãnh liệt... [và] gần như 'diễn' trong lúc hát".[15] Lần đầu xuất hiện trong bản thu âm Black Rose vào năm 1980,[232] Cher thể hiện giọng ca sắc bén và hung hăng hơn trong các album mang thể loại hard rock, với hình ảnh gợi cảm tự tin.[233] Trong album It's a Man's World (1995), bà kiếm chế giọng hát và trình bày ở quãng giọng cao hơn.[124] Bài hát "Believe" năm 1998 mang hiệu ứng giọng điện tử,[221] là bản thu âm thương mại đầu tiên xuất hiện phương pháp Auto-Tune—một dạng xử lý âm thanh được sáng chế nhằm che giấu hoặc chỉnh lại lỗi trong giọng hát thu âm—như một hiệu ứng sáng tạo có chủ ý. Sau thành công của bài hát, kỹ thuật này được biết đến như "hiệu ứng Cher"[227] và xuất hiện rộng rãi trong âm nhạc đại chúng.[234] Cher tiếp tục sử dụng Auto-Tune trong các album Living Proof (2001)[235] và Closer to the Truth (2013).[236]

Phim ảnh, video âm nhạc và trình diễn trực tiếp

Cher trình diễn trong Dressed to Kill Tour, 2014

Trong cuốn Working Girls: Gender and Sexuality in Popular Cinema (2002), tác giả Yvonne Tasker cho rằng các vai diễn của Cher phản chiếu nên hình tượng công chúng của bà như một người phụ nữ bất cần, tình dục tự chủ và tự lập.[237] Trong các bộ phim của mình, Cher vào vai trung gian xã hội của những nhân vật nam bị giam cầm, như nạn nhân mắc chứng chân voi của Eric Stoltz trong Mask (1985), người cựu chiến binh bị câm vô gia cư của Liam Neeson trong Suspect (1987) và thợ làm bánh bị cô lập với một bàn tay giả của Nicolas Cage trong Moonstruck (1987).[238] Nhà phê bình điện ảnh Kathleen Rowe cho rằng Cher vào vai trong Moonstruck như "một 'người phụ nữ nắm quyền' cùng tính cách ngang bướng của một ngôi sao mà Cher thêm vào nhân vật".[239] Jeff Yarbrough of The Advocate chú ý rằng Cher là "một trong những siêu sao đầu tiên 'vào vai đồng tính' cùng lòng trắc ẩn mà không mang lại cảm giác rập khuôn", khi nhận vai diễn đồng tính nữ trong bộ phim Silkwood năm 1983.[240]

Hình tượng công chúng của Cher còn ảnh hưởng đến nhiều video âm nhạc và màn trình diễn trực tiếp của bà, khi Tasker viết rằng bà "thường xuyên bình luận trên xây dựng của chính mình, trên quá trình tìm kiếm sự hoàn mỹ và trình diễn cơ thể phụ nữ của bà".[241] Khác với những video âm nhạc và dàn dựng sân khấu lúc bấy giờ, thường xuyên sử dụng vũ công nữ phụ họa cho màn trình diễn, Cher sử dụng một vũ công nam hóa trang thành bà trong video concert Cher at the Mirage năm 1992;[241] tác giả Diane Negra có viết "Cher thừa nhận bản thân như một sản phẩm hư cấu và mang đến cho khán giả sự thỏa mãn rộng rãi." James Sullivan của San Francisco Chronicle ghi nhận "Cher biết rõ sự quyến rũ linh hoạt của bà giúp dàn dựng sân khấu theo kỷ nguyên rộng lớn và lộng lẫy như hiện nay. Bà đủ rộng lượng xem những mô phỏng sau này như một sự tâng bốc, hơn là bắt chước."[242]

Cher xếp thứ 17 trong danh sách "50 người phụ nữ vĩ đại nhất kỷ nguyên video" của VH1.[243] Video "Hell on Wheels" vào năm 1980 có sử dụng nhiều kỹ thuật làm phim[244] và là một trong những video âm nhạc xuất hiện đầu tiên.[245] Với cảnh Cher trình diễn trên Tàu hải quân, đứng giữa một khẩu pháo[114] và mặc một chiếc quần dây để lộ hình xăm ở vòng ba,[115] video "If I Could Turn Back Time" gây nhiều tranh cãi của Cher là video đầu tiên bị hệ thống MTV cấm phát sóng.[241]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cher http://www.ariacharts.com.au/news/50698/this-week-... http://www.heraldsun.com.au/entertainment/celebrit... http://www.abc.net.au/tv/guide/netw/200406/highlig... http://www.accesshollywood.com/articles/cher-on-fi... http://www.advocate.com/News/Daily_News/2010/11/19... http://www.allmovie.com/artist/cher-p12664 http://www.allmovie.com/artist/p12664 http://www.allmusic.com/album/3614-jackson-highway... http://www.allmusic.com/album/all-i-really-want-to... http://www.allmusic.com/album/closer-to-the-truth-...